- Người tai mắt đứng trong trời đất,
- Ai là không cha mẹ sinh thành,
- Gương treo đất nghĩa, trời kinh,
- Ở sao cho xứng chút tình làm con.
- Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
- Thì suy ra trăm nết đều nên,
- Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
- Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.
- Ðức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn,
- Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
- Tuổi xanh khuất bóng từ vi,
- Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương
- Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt,
- Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa.
- Một mình thuận cả, vừa ba
- Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
- Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt,
- Dẫu tử sinh không chút biến dời,
- Xót tình khóc tối, kêu mai,
- Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần.
- Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
- Vật vô tri cũng mến lọ người,
- Mấy phen non lịch pha phôi,
- Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày .
- Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
- Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi
- Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi,
- Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.
- Kìa Văn Ðế vua hiền Hán đại
- Vâng ấn phong ngoài cõi phiên vương
- Quên mình chức cả, quyền sang,
- Phụng thờ Bạc Hậu lễ thường chẳng sai.
- Ðến khi nối ngôi trời trị nước,
- Vẫn lòng này săn sóc như xưa .
- Mẹ khi ngại gió, kinh mưa,
- Ba năm hầu hạ, thường như mọi ngày.
- Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ,
- Áo luôn mình dám sổ đai lưng.
- Thuốc thang mắt xét, tay nâng,
- Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn.
- Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,
- Thói thuận lương hóa cả lê nguyên.
- Hai mươi năm lẻ kiền khôn,
- Ðã sau Tam Ðại, hãy còn Thành, Khang.
- Ấy hay vị đế vương đời trước,
- Chữ hiếu dành đá tạc, vàng in,
- Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền
- Ðếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.
- Ðời Chu mạt có thầy Tăng Tử,
- Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
- Bữa thường rượu thịt ngon lành,
- Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời.
- Nhà bần bạc thường vui hái củi,
- Quãng mù xanh thui thủi non sâu,
- Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,
- Nhân khi khách đến, trông mau con về.
- Rồi trong dạ nhân khi cùng túng,
- Cắn ngón tay cho động lòng con.
- Trong non bỗng chốc bồn chồn,
- Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân.
- Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi,
- Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn.
- Cho hay từ, hiếu tương quan,
- Non Ðồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông.
- Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
- Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
- Thờ cha sớm viếng, khuya hầu,
- Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
- Trời đương tiết đông hàn lạnh giá,
- Hai em thời kép áo, mền bông,
- Chẳng thương chút phận long đong,
- Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.
- Khi cha dạo, theo chân xe đẩy,
- Rét căm căm nên xẩy rời tay,
- Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,
- Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tùy.
- Lau nước mắt, chân quỳ, miệng gửi:
- Lạy cha xin xét lại nguồn cơn
- Mẹ còn, chịu một thân đơn,
- Mẹ đi, huống để cơ hàn cả ba
- Cha nghe nói cũng sa giọt tủi.
- Mẹ nghe rồi cũng đổi lòng xưa,
- Cho hay hiếu cảm nên từ,
- Thấm lâu như đá cũng từ lòng hoa?
- Thầy Tử Lộ cùng người nước Lỗ,
- Thờ hai thân từng bữa canh lê
- Thường khi đội gạo đi về,
- Xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai.
- Ðỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc,
- Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng,
- Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,
- Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao.
- Thân phú quý ngắm vào thêm tủi,
- Ðức cù lao chạnh tới lòng đau,
- Nào khi đội gạo, canh rau,
- Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru?
- Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn để,
- Biết bao giờ cam chỉ đền công.
- Cho hay dạ hiếu khôn cùng,
- Dẫu Tam Công chẳng đổi lòng thần hôn.
- Chu Diễm Tử làm con rất thảo,
- Chiều hai thân tuổi lão, niên cao,
- Mắt trần khuất nguyệt, mờ sao,
- Sữa hươu, người những ước ao từng ngày.
- Vật khó kiếm khôn thay thường đổi,
- Phải lo phương tìm tõi cho ra.
- Hươu khô tìm lấy lột da,
- Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
- Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa,
- Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân,
- Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
- Rắp buông cung bắn, khôn phân vật, người.
- Ðem tâm sự tới nơi bày tỏ,
- Chút hiếu tình nghe rõ không thôi,
- Cho hay chung một tính trời,
- Mảnh son cũng động được người vũ phu.
- Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ,
- Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi,
- Tuổi già đã đúng bảy mươi.
- Nói năng chẳng chút hở môi rằng già.
- Khi thong thả, mẹ cha ngồi trước,
- Ghé gần vào bắt chước trẻ thơ,
- Thấp cao điệu múa nhởn nhơ,
- Xênh xoang màu áo, bạc phơ mái đầu.
- Chốn đường thượng, khi hầu bưng nước,
- Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
- Khóc lên mấy tiếng oa oa,
- Tưởng chừng lên bảy, lên ba thuở nào.
- Trên tuổi tác trông vào vui vẻ
- Áng đình vi, gió thụy mưa xuân
- Cho hay nhân tử sự thân,
- Trong trăm năm được mấy lần ngày vui.
- Ðời Hậu Hán có người Ðổng Vĩnh,
- Nhà rất nghèo mà tính rất thành,
- Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh,
- Phụ tang để đó, nhân tình còn chi.
- Liều thân thể làm thuê công việc,
- Miễn cầu cho thể phách được yên.
- Nực cười thay! nhẽ đồng tiền,
- Ðem thân hiếu tử, băng miền phú gia.
- Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó,
- Xin kết làm phu phụ cùng đi.
- Lụa, ba trăm tấm dệt thuê,
- Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
- Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến,
- Là tiên cô, Trời khiến giúp công.
- Mới hay Trời vốn ở lòng,
- Há rằng cao thẳm, nghìn trùng mà xa.
- Hán Quách Cự cửa nhà sa sút,
- Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề.
- Con còn ba tuổi biết gì,
- Bữa ăn từ mẫu thường thì bớt cho.
- Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói,
- Với hiền thê than nỗi khúc nhôi
- Mẹ già đã chẳng hay nuôi,
- Ðể con xẻ ngọt, chia bùi sao đang?
- Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ,
- Mẹ già rồi, hồ dễ được hai,
- Nói thôi, giọt vắn, giọt dài,
- Ðào ba thước đất để vùi tình thâm.
- May đâu thấy hoàng kim một hũ,
- Chữ Trời cho đề rõ rành rành,
- Cho hay Trời khéo ngọc thành,
- Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con.
- Hán Khương Thị nhà còn lão mẫu,
- Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
- Mẹ thường muốn uống nước sông,
- Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô.
- Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém,
- Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi,
- Lại mời lân ẩu sang chơi,
- Ðể bồi cùng mẹ cho vui bạn già.
- Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt,
- Với nước sông in một mùi ngon,
- Lý Ngư ngày nhảy hai con,
- Ðủ trong cung cấp thần hôn thường lề.
- Rày thong thả bõ khi lận đận,
- Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền.
- Cho hay gia đạo khi nên,
- Ðã con hiếu, lại được hiền cả dâu.
- Người Thái Thuận ở sau đời Hán,
- Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay,
- Ðương cơn khói lửa mây bay,
- Liền năm hoang khiếm, ít ngày đủ no.
- Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
- Nhặt quả dâu chia để làm hai,
- Tặc đồ trông thấy nực cười,
- Hỏi: "Sao bày đặt đôi nơi cho phiền?"
- Rằng: "Quả ấy sắc đen thì ngọt,
- "Dâng mẹ già gọi chút tình con,
- "Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
- "Cái thân cay đắng dám còn sợ chua?"
- Giặc nghe nói khen cho hiếu kính,
- Bước lưu ly mà gánh cương thường,
- Truyền quân của tiễn sẵn sàng,
- Vó trâu một chiếc, gạo lương một bàu.
- Mừng trong dạ, bước mau lẹ gót,
- Về tới nhà, miếng sốt dâng qua,
- Cho hay người cũng người ta,
- Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm?
- Hán Ðinh Lan thuở còn thơ ấu,
- Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh,
- Ðến nay tuổi đã trưởng thành,
- Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam.
- Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng,
- Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh,
- Khi chăn gối, buổi cơm canh,
- Mấy mươi năm vẫn lòng thành trước sau.
- Phải người vợ kính lâu nên trễ,
- Thử lấy kim châm kẽ ngón tay,
- Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
- Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao?
- Khi đến bữa, chồng vào đặt lễ,
- Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan,
- Xét xem mới biết nguồn cơn,
- Nổi bùng lá giận, dứt tan dây tình,
- Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
- Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân,
- Cho hay thành hẳn nên thần,
- Há rằng u hiển, mà phân vong tồn.
- Hán Lục Tích thuở còn sáu tuổi,
- Quận Cửu Giang đến với họ Viên,
- Trẻ thơ, ai chẳng yêu khen,
- Quýt ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng.
- Cất hai quả vào ngay trong áo,
- Tiệc tan xong, từ cáo lui chân,
- Trước thềm khúm núm gửi thân,
- Vô tình quả quýt nảy lăn ra ngoài.
- Viên trông thấy, cười cười hỏi hỏi,
- "Sao khách hiền mang thói trẻ thơ?"
- Thưa rằng: "Mẹ vốn tính ưa,
- "Vật ngon dành lại để dưa mẹ thì."
- Viên nghe nói, trọng vì không xiết,
- Bé con con mà biết hiếu thân,
- Cho hay phú giữ thiên chân
- Sinh ra, ai cũng sẵn phần thiện đoan.
- Hán Giang Cách cô đơn từ bé,
- Bước truân chuyên với mẹ đồng cư,
- Ðương cơn loạn lạc bơ vơ,
- Một mình cõng mẹ vẩn vơ dọc đường.
- Từng mấy độ chiến trường gặp giặc,
- Giặc cố tình hiếp bắt đem đi,
- Khóc rằng: "Thân mẹ lưu ly,
- "Tuổi già, bóng chếch biết thì cậy ai?"
- Giặc nghe nói thoắt thôi, chẳng nỡ,
- Rồi dần dà qua ở Hạ Bì,
- Dấn mình gánh mướn, làm thuê,
- Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân.
- Mọi đồ vật sắm dần đủ hết
- Áng xuân phong tươi nét từ nhan,
- Cho hay những lúc gian nan,
- Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng.
- Ðời Ðông Hán, Hoàng Hương chín tuổi,
- Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương,
- Hạt châu khôn ráo hai hàng,
- Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen.
- Thờ nghiêm phụ cần chuyên, khuya sớm,
- Ðạo làm con chẳng dám chút khuây,
- Trời khi nắng hạ chầy chầy,
- Quạt trong màn gối, hơi bay mát rầm.
- Trời đông buổi sương đầm, tuyết thắm,
- Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn,
- Vì con, cha đưọc yên thân,
- Bốn mùa không biết có phần hạ, đông,
- Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú
- Biển nên treo chói đỏ vàng son,
- Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
- Nghìn thu biết đạo làm con mấy người?
- Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây Tấn,
-
Vì thù cha lánh ẩn, cao bay,
-
Bên mồ khóc đã khô cây,
-
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào.
- Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ,
-
Lạy khóc rằng: "Con trẻ ở đây ."
-
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
-
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa.
- Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
-
Thần phách yên, dạ mới được yên,
-
Trong khi đọc sách giảng truyền,
- Tới câu "sinh ngã" lệ tràn như tuôn.
-
Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
-
Thơ "Lục Nga" chẳng dám còn ngâm,
-
Cho hay thử lý, thử tâm,
-
Sư, sinh cũng tấm tình thâm, khác gì .
- Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám,
- Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn,
- Cực về một nỗi bần hàn,
- Có giường trong đặt, không màn ngoài che.
- Trời đương buổi đêm hè nóng nảy,
- Tiếng muỗi kêu vang dậy đương mùa.
- Xót thay! hai đấng nghiêm, từ,
- Ðể người chịu muổi, bây giờ biết sao?
- Nghĩ da thịt phương nào thay lấy?
- Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua,
- Rầu lòng cho muỗi được no,
- Ðể người êm ái giấc hoè cho an.
- Tuổi tuy bé, nhưng gan chẳng bé,
- Dạ ái thân đến thế thời thôi.
- Cho hay phú tính bởi trời,
- Những đau trong ruột, dám nài ngoài da.
- Người Vương Tường cũng là đời Tấn,
- Tủi huyên đường sớm lẩn bóng xa.
- Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa,
- Tiếng gièm thêu dệt với cha những điều.
- Lòng cha chẳng còn yêu như trước,
- Mẹ thương muốn bữa sinh ngư,
- Giá đông trời lạnh, bây giờ tìm đâu?
- Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy.
- Cởi áo nằm rét mấy cũng vui.
- Bỗng đâu váng lở làm hai,
- Lý ngư may được một đôi đem về.
- Bữa cung cấp một bề kính thuận,
- Mẹ cha đều đổi giận làm lành,
- Cho hay hiếu cảm tại mình,
- Dẫu trăm giận, lúc hạ tình cũng thôi.
- Tấn Dương Hương mới mười bốn tuổi,
- Cha bước ra hằng ruổi theo cha.
- Phải khi thăm lúc đường xa,
- Chút thân tuổi tác thoắt xa miệng hùm.
- Ðau con mắt, hầm hầm nổi giận,
- Nắm tay không, vơ vẩn giữa đường,
- Hai tay chặn dọc, đè ngang,
- Ra tay chống đối với hổ lang một mình.
- Hùm mạnh phải nhăn nanh, lánh gót,
- Hai cha con lại một đoàn về.
- Cho hay hiếu mạnh hơn uy,
- Biết cha thôi lại biết chi có mình.
- Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
- Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng.
- Tuổi già trằn trọc, băn khoăn,
- Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
- Trời đông tuyết biết tìm đâu được
- Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
- Một thân ngồi tựa gốc tre,
- Ôm cây kêu khóc, nằn nì với cây.
- Giữa bình địa phút giây bỗng nứt,
- Mấy giò măng, mặt đất nổi lên,
- Ðem về điều đặt bữa canh,
- Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
- Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
- Ðể về sau nhớ lấy cỏ cây.
- Cho hay hiếu động cao dày,
- Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình.
- Sửu Kim Lâu có danh Tề quốc
- Huyện Bình Lăng nhậm chức thân dân.
- Tới nha chưa được một tuần,
- Mồ hôi như dội, tâm thần thường đau.
- Treo ấn ruổi vó câu buồn bã,
- Về thăm cha, bệnh đã hai ngày.
- Nếm dơ vẫn cứ lời thầy,
- Ngọt ngào đầu lưỡi, chua cay trong lòng.
- Thấy chữ dạy: "Bệnh trung nghi khổ"
- Ước làm sao bệnh đỡ mới cam.
- Ðêm đêm hướng Bắc, triều tam,
- Xin đem tánh mạng thay làm thân cha.
- Lòng cầu khẩn thấu tòa tinh tú,
- Chữ bình an vui thú đình vi.
- Cho hay mảy động huyền vi,
- Thay mình truyện trước còn ghi kim bằng.
- Dâu họ Thôi, ai bằng Dương thị,
- Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao,
- Không răng, ăn dễ được nào,
- Ngày ngày lau chải, ra vào thăm coi.
- Lấy sữa ngọt thay mùi cơm cháo,
- Mấy năm trời chẳng gạo mà no.
- Vì đâu dốc dạ thờ cô,
- Da mồi, tóc bạc, bốn mùa như xuân.
- Ơn lòng ấy khôn phần báo lại,
- Buổi lâm chung, nhủ với hoàng thiên,
- Xin cho nguyền được như nguyền,
- Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu.
- Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính,
- Cửu Thôi gia hưng thịnh đời đời.
- Cho hay gia khánh lâu dài,
- Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan.
- Châu Thọ Xương làm quan Tống đại,
- Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng.
- Bởi vì đích mẫu chẳng dung,
- Ðem thân bồ liễu bạn cùng nước non.
- Muôn nghìn dặm mẹ con xa cách
- Năm mươi năm trời đất bơ vơ.
- Sinh con những tưởng cậy nhờ,
- Cái thân sung sướng bây giờ mà chi?
- Bỏ quan chức, quyết đi tìm tõi,
- Nặng lời thề nói với gia nhân,
- Thân này chẳng gặp từ thân,
- Thời liều sống thác với thân cho đành.
- Trời đâu nỡ phụ lòng hiếu tử.
- Chốn đồng châu mẫu tử gặp nhau.
- Nét mừng ai vẽ nên đâu.
- Mẹ đầu nhuộm tuyết, con đầu hoa râm.
- Đã bỏ lúc than thầm khóc ngấm.
- Lại vẽ nên trên ấm dưới êm.
- Cho hay máu chảy ruột mềm.
- Chẳng trời, ai tưởng còn tìm được đây
- Triều Nguyên Hữu có thầy Tăng Trực,
- Là họ Hoàng ngồi chức sử thần,
- Ơn vua đã nhẹ tấm thân,
- Phận con, vẫn giữ thờ thân như ngày.
- Ðồ dơ bẩn tự tay lau chuốt,
- Việc tầm thường chẳng chút đơn sai,
- Há rằng sai khiến không ai,
- Ðem thân quan trọng thay người gia nô.
- Chức nhân tử phải cho cần khổ,
- Có mẹ cha mới có thân ta,
- Cho hay đạo chẳng ở xa,
- Hãy làm hiếu tử mới ra trung thần.
- Bấy nhiêu tích cổ nhân về trước,
- Cách nghìn xưa như tạc một lòng.
- Kể chi kẻ đạt, người cùng,
- Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân.
- Buổi công hạ cảm thân dày đội,
- Xa hương quan, gần cõi Thánh Hiền.
- Trông vào những thẹn bóng đèn
- Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm.