Câu đối về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Những câu đối ở đền Hát Môn và các đền miếu khác thờ Hai Bà Trưng

sửa

Lịch sử và truyền thuyết kể rằng hai chị em vốn dòng dõi họ HÙNG - Một trong dòng họ làm Vua tổ của dân tộc Việt Nam nay thuộc MÊ LINH tỉnh PHÚ THỌ. Mẹ Hai Bà Trưng, Bà MAN THIỆN sớm góa bụa song đã nuôi dạy con cái theo tinh thần thượng võ và yêu nước. Chồng Trưng Trắc là THI SÁCH, con trai một Lạc tướng huyện CHU DIỄN bị giặc ngoại xâm giết hại. Trước cảnh nước mất nhà tan TRƯNG TRẮC cùng em TRƯNG NHỊ quyết tâm tiến hành khởi nghĩa NỢ NƯỚC, THÙ NHÀ. Tháng 3 năm 40, HAI BÀ TRƯNG lập đàn thờ trên cửa sông HÁT truyền lệnh khởi nghĩa. Nhân dân các quận CỬU CHÂN, NHẬT NAM, HỢP PHỐ cùng nổi dậy hưởng ứng cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Hai Bà lập nên VƯƠNG TRIỀU mới, đóng đô ở MÊ LINH. Xưng hiệu là TRƯNG VƯƠNG.

Hai năm sau, MÃ VIỆN, tướng nhà Hán, mang hai vạn quân sang xâm lược nước ta. Do lực lượng yếu, Hai Bà lui về CẨM KHÊ và cầm cự với quân giặc hơn một năm trời. Cuối cùng, bị thất bại, Hai bà chạy về HÁT MÔN gieo mình xuống sông HÁT GIANG tự vẫn (năm 43). Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng nổ ra ở 7 quận của Giao Châu này. Câu đối ở đền Hát Môn:

Cung kiếm thất tu mi, nữ chủ uy thanh lưu thất quận
Bình mông phổ bào dư, thần vương phúc tỉ vĩnh thiên thu.

Dịch:

Cung kiếm vượt nam nhi, nữ chủ uy danh lưu bảy quận

"Che chở khắp đồng bào, thần vương phúc đức mãi nghìn năm.

Hai Bà Trưng toàn thắng, chiếm 65 thành ở Lĩnh Nam … Lẽ ra nếu khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra ngay sau khi nước Nam Việt của nhà Triệu bị mất thì “Lĩnh Nam” phải là toàn bộ vùng đất Nam Việt cũ, nghĩa là phải có tới 9 quận gồm cả Đam Nhĩ, Chu Nhai. Sự thật là khởi nghĩa Trưng Vương nổ ra sau thời Sĩ Nhiếp lập Giao Châu bộ, nên Lĩnh Nam lúc này chỉ còn 7 quận mà thôi. Như vậy “thất quận” chính là vùng đất của nhà Nam Việt từ Triệu Vũ Đế. Bài thơ ở Đào Xá đã chỉ ra “Nam quốc” thực sự là gồm những vùng đất nào. Đồng thời bài thơ cũng cho thấy ý đồ của nhà Lý không chỉ giới hạn ở vùng Tĩnh Hải mà còn muốn phục quốc Đại Việt gồm 7 quận Lĩnh Nam. Thực tế thì Lý Thường Kiệt đã đánh vào châu Ung, châu Khâm, châu Liêm, mục đích rõ ràng là “thống nhất 7 quận” Nam Việt.

Mở đầu khu di tích là Quán Tiên được nhân dân dựng lên để thờ tiên thánh đã hiển linh thành bà lão bán hàng nước âm phù giúp Hai Bà Trưng. Thân trụ biểu lớn ghi đôi câu đối bằng chữ Hán với nội dung khẳng định sự bền vững của đất nước cùng chủ quyền dân tộc:

Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cấm Khê doanh hạc Hát Giang trường

Nghĩa là:

Đồng trụ gãy hay còn, núi non Giao Chỉ vẫn vững
Cấm Khê đầy hay cạn, sông nước Hát Giang vẫn dài

Từ cổng đền, rẽ tay trái là đến Nghi môn. Nghi môn tuy không cao lớn nhưng được làm theo hình thức cổ truyền nên mang nét ấm cúng, trữ tình để cho du khách khi bước tới đây sẽ dẹp bỏ được những lo toan, giữ lòng thanh tịnh mà hướng tới cõi thiêng liêng:

Hống Hát Môn tiền thanh uyển cựu
Phù An Nam Quốc đức di tân

Nghĩa là:

Tiếng thét nơi đây âm hưởng mãi
Giữ nguyên Nam quốc đức ân dày

Đặc biệt, ở đền còn có nhiều đôi câu đối viết bằng chữ Hán đặc sắc như:

Anh hùng đại quá nhân bất cận nhất thời khôi thổ vũ
Tinh linh tại thiên địa năng ư thiên tải phúc tư dân

Nghĩa là:

Anh hùng vượt thế thường, công lớn một thời điểm tô cho đất nước.
Tinh linh cùng trời đất, bao trùm muôn thưở mang phúc cho dân
Lẫm lẫm trượng phu phong bát diệp Lý Hoàng thôi tuấn vọng
Đường đường thiên tử quý cửu chân Triệu Âu nhượng hồng danh

Nghĩa là:

Phong thái trượng phu lừng lẫy Lý Chiêu Hoàng sao khó ví
Ngôi sao thiên tử uy nghi bà Triệu Âu há đọ bày
  • Câu đối khắc tại Trưng Vương Đại Công Thần linh từ:

Tại đền thờ đại công thần linh thiêng của Trưng-vương, hai bên có đôi câu đối nội dung như sau:

Tô khấu tước bình,trực bả quần thoa đương kiếm kích
Trưng vương dực tải, hảo tương cân quắc hộ sơn hà

Nghĩa là:

Dẹp giặc Tô Định, dùng quần thoa đương với kiếm, kích.
Phù vua Trưng, đem khăn yếm giữ non sông.
  • Một câu đối ở đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng đánh đố nhiều bậc túc nho:
Tiếp Lạc khai Đinh, quan miện xưng vương tam tải sử
Khu Tô kháng Mã, sơn hà hoàn ngã vạn niên phương.

Nghĩa là:

Tiếp Lạc Hồng mở Đinh Tây, áo mũ xưng vua ba mùa lưu sử sách
Đuổi Tô Định chống Mã Viện, núi sông thu lại vạn xuân truyền danh thơm.
Chữ Đinh là một từ chỉ … phương hướng. Đinh, hay Tĩnh là tính chất của phương Tây. Vì Hai Bà Trưng khởi nghĩa từ “Châu Phong”, là vùng đất Tây Thổ, nên có thể người xưa cho rằng triều đại của Trưng Vương có tên là Đinh (Tây). Tiếp theo là Đinh Tiên Hoàng, hiểu theo từ ngữ tức là vị hoàng đế đầu tiên của phần đất Đinh (Tĩnh Hải – Giao Chỉ), vì khi đó phần Thanh Hải (Lưỡng Quảng) đã bị rơi vào tay nhà Tống. Ngay khi lập quốc Đinh Tiên Hoàng đã sai con đi sứ sang Tống. Nhà Tống phong cho Đinh Liễn làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. Điều này cho thấy Tĩnh Hải hay Đinh vào thời gian này là chỉ phần Giao Chỉ. Chữ “Đinh” ở mặt sau của đồng tiền Đại Hưng bình bảo phải chăng cũng là chỉ vùng đất này, với nghĩa tiền được đúc ở phần Tây của nước Đại Hưng?

Những câu đối ở nhiều nơi trên đất phía nam Trung Quốc thờ Hai Bà Trưng

sửa

Nhà báo Phạm Hồng cho biết, ông đã thấy những ngôi đền thờ "Mụ Trưng", "Mụ Trắc" trên đất Quảng Tây; BS Trần Đại Sĩ (trong chuyên luận Lĩnh địa thời vua Trưng) cũng cho biết, ông đã tìm được nhiều đền thờ Vua Bà và trong một ngôi miếu thờ ba vị tướng của Vua Bà ở Bồ Lăng còn thấy hai đôi câu đối minh chứng cho thực địa lãnh thổ và cuộc chiến của triều đại Hai Bà:

Câu thứ nhất:

"Khẳng khái phù Trưng thời bất lợi
Đoạn trường trục Định, tiết can vân"

Ông Trần Đại Sĩ dịch là:

"Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây".

Câu thứ hai:

"Giang-thượng tam anh phù nữ chúa
Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung"

Ông Trần Đại Sĩ dịch là:

"Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa
Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc các vị thần trung thành"
"Nhà sử học Trung Quốc La Hương Lâm cho rằng các dân tộc này có cùng tổ tiên với nhà Hạ. Tuy nhiên, các di chỉ khảo cổ học có niên đại thuộc thời đại Đồ Đá Mới (Neolithic) tại Quảng Tây và ở miền Bắc Việt Nam cho thấy thổ dân bản xứ có nguồn gốc ở phía Nam và có quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) ở Việt Nam.

Những câu đối khắc tại Thiên Đài bên bờ Tương Giang - Trung Quốc

sửa

Tương truyền cháu 3 đời của Viêm Đế Thần Nông thị là Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế dương, phân chia lãnh thổ Lĩnh Bắc tức Trung Quốc, Lĩnh Nam tức Đại Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên đàị, nằm gần bên bờ Tương giang. Đến thời Đông Hán, Nữ tướng Hoàng Thiều Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Ðộng đình, đã sai Hiển Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên đài. Hiển Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thờ Quốc tổ, Quốc mẫu, đã không chịu lui quân. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núi. Về đời Đường, để xóa vết tích Việt Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh Nam mới cho xây chùa tại đây. Vua Bà là vua Trưng, còn tướng Ðào Hiển Hiệu giữ chức Hổ nha đại tướng quân. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối:

Thoát thân Nam thành xưng sư tổ
Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh
'Hai câu này ngụ ý ca tụng Thái-tử Tất-Ðạt-Ða đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.
Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận
Phật công hiển hách quốc thái an dân
Hai câu này là ngụ ý nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió hòa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.

Nơi có dấu vết Thiên-đài, còn đôi câu đối khắc vào đá:

Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc
Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường

Nghĩa là:

Từ sau vụ Đế Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc.
Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-thường.

Chỗ miếu thờ của Ðào Hiển-Hiệu có đôi câu đối:

Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế
Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long

Nghĩa là:

Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Ðộng đình làm kinh tâm vua Quang Vũ nhà Hán (Ý chỉ nữ tướng Phật Nguyệt đánh bại Mã Viện ở phía Nam hồ Ðộng đình)
Một nghìn tay đao do Hiển Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ lĩnh trấn Lưu Long.

Câu đối khắc ở đình làng Dâu thờ công chúa Vĩnh Huy

sửa

ĐÌnh làng Dâu (tên Nôm là Cổ Châu) ở huyện Đông Anh thờ công chúa Vĩnh Huy, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Có đôi câu đối như sau:

Cử mục giang sơn vô Hán Tướng; (Mắt ngắm non sông, sá chi tướng Hán,)
Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương. (Lòng thề trời đất, chỉ có vua trưng).

Những câu đối khắc ở đình Mai Động thờ danh tướng Tam Trinh

sửa

Tướng Tam Trinh sinh ở huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá. Những năm đầu công nguyên ông đi thăm thú khắp nơi và dừng chân tại hương Cổ Mai (trong đó có làng Mai Động ngày nay). Ông mở trường bên bờ sông Kim Ngưu dạy văn, dạy võ cho con em trong vùng. Mùa xuân năm 40, hưởng ứng lời hiệu triệu của Hai Bà, ông đưa ba nghìn tráng đinh ứng nghĩa. Hai Bà Trưng cử ông làm tướng, dẫn một đạo quân lớn, tiến thẳng tới trị sở giặc ở Luy Lâu. Nhưng đất nước thanh bình không được bao lâu, năm 43 Mã Viện lại kéo quân sang cướp nước ta. Tướng Tam Trinh được Hai Bà Trưng cử về trấn giữ vùng đất phía nam Hà Nội ngày nay. Ít lâu sau, ông về Mai Động đào hào đắp luỹ cùng nhân dân chống giặc. Khi nghe tin Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên sông Hát, đô Tam Trinh quyết chiến một trận và hi sinh vào đêm 10 tháng Hai năm Quý Mão (43). Tưởng nhớ ông, nhân dân Mai Động dựng đình thờ ông làm thành hoàng. Nhân dân đất Việt tôn vinh ông là tổ vật của cả nước. Đôi câu đối ở đình ghi:

“Đức bác thánh văn truyền Việt địa
Ung dung thần vũ trấn Nam thiên”

Tạm dịch:

“Văn thánh đức cao truyền đất Việt
Võ thần vui mạnh dậy trời Nam”

Quân sĩ của ông vừa là những người lính chiến thực sự, vừa là đô vật lừng danh: "Khố xanh khố đỏ vào sân, Hai tay bưng giải mười xuân đủ mười." Tướng tài Tam Trinh ra trận múa gươm đi đầu, quân sĩ noi gương chĩa mũi giáo vào ngực giặc, thét to xông tới. Đình Mai Động có câu đối thờ:

Đình triều cổ mộc ân sâm thụ sắc như thôi Tô Bắc khứ (Công xưa trước miếu um tùm màu lá biếc như thúc đuổi giặc Tô về đất Bắc)
Từ ngoại hàn đàm thoan khích thuỷ binh do hận Mã Nam lai (Đầm lạnh ngoài đền rợn sóng, tiếng nước reo còn căm quân Mã tới phương Nam)

Tướng Tam Trinh còn được coi ông tổ lò vật phường Mai Động, Thăng Long xưa. Đình Mơ Táo phía dưới chợ Mơ thờ ông, cột đình sáng lên câu đối:

Thành hoàng tổ nghiệp dân thừa tự, (Nhân dân thừa tự đức Thành hoàng,)
Đô úy triều phong thế vĩnh lưu. (Đời đời nhớ Đô úy do triều phong tặng)

Câu đối khắc ở đình Vĩnh Ninh thờ Nàng Tía (25 - 43)

sửa

Thời nhà Hán đô hộ, khoảng năm 40-43, dưới cờ nghĩa Hai Bà Trưng còn Nàng Tía, vị nữ tướng múa thanh kiếm báu trong tay, xông vào giữa trận diệt bầy sói lang, khiến giặc vừa khiếp sợ vừa kinh phục. Đình Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì thờ Bà Nàng Tía có câu đối:

Sinh ứng xương kỳ, hiệp tán Hùng gia song hiển hách (Thời thịnh đản sinh, phù triều Hùng hai ngôi hiển hách)
Triệu bằng tiền mộng, dực phù Trưng thế nhất anh thư (Mộng xưa ứng triệu, giúp nhà Trưng một vị anh thư)

Làng Vĩnh Ninh còn có tên Vĩnh Đặng, nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì. Từ ga Văn Điển đi vào khoảng 3 km về phía Nam, cạnh đầm Mực – chiến trường diệt quân Thanh mùa xuân Kỷ Dậu (1789)

Đình thờ thành hoàng là Bà Tía, một nữ tướng của Hai Bà Trưng thời đầu Công nguyên. Thần tích kể rằng: Bà mẹ là người làng, mộng thấy được thần tặng hoa sen mà có hai sinh ra nàng. Bố mẹ mất sớm, nàng Tía ở với bà cô, dung mạo xinh đẹp lại có tài võ nghệ. Năm 15 tuổi, Hai Bà lên ngôi vua, có một lần qua làng gặp nàng đang gánh nước bên giếng bèn hỏi chuyện. Cảm mến tài trí, vua Bà đưa về triều. Năm 43, Mã Viện sang đánh Âu Lạc, nàng Tía được phong tướng, đánh nhiều trận. Cả đến khi hay tin Hai Bà đã tự vẫn, nàng Tía vẫn câm quân chống cự ở cửa Thần Phù. Giữa sóng to gió cả, mưa kéo đen trời đất, nàng Tía đã hóa đi vào cõi bất diệt. Dân làng lập đình thờ Nàng cùng với ông Rắn và ông Đất.

Câu đối khắc ở đền thờ Lê Thị Hoa (nữ tướng thời Hai Bà Trưng)

sửa

Theo ghi chép của thần tích đền Thượng Linh (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) thì Lê Thị Hoa sinh trưởng tại đây. Năm 19 tuổi, Bà kết hôn với Mai Tiến. Tô Định gọi chồng Bà ra Gia Lâm trao cho chức quan để dễ bề chiếm đoạt Bà. Mai Tiến đến nơi thì bị Tô Định lập mưu giết, Lê Thị Hoa tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng trả thù cho chồng. Sau khi đuổi được Tô Định, bà đến vùng Nga Sơn tổ chức khẩn hoang. Năm 43, Mã Viện đem binh sang đàn áp. Bà đem lực lượng của mình ra chống trả, nhưng nghĩa binh của Bà thất bại và Bà đã hi sinh tại Nga Sơn. Hiện nay, ở xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá có đền thờ Bà với đôi câu đối phản ánh rất rõ lí tưởng của Bà:

Thệ báo Tô cừu, thanh Bắc khấu.
Nghĩa phù Trưng chủ, phục Nam bang.

Nghĩa là :

Thề trả mối thù với Tô Định, trừ khử giặc Bắc
Giữ nghĩa phò Trưng Vương, khôi phục nước Nam

Bà Lê Thị Hoa tên hiệu là Từ Thiện, tặng phong là Phu Nhân. Dòng tộc họ Mai, khu Thượng trang An Nội phụng thờ. Đền thờ Bà Từ Thiện Phu nhân thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1989. Hàng năm, họ Mai xã Nga Thiện tổ chức tế lễ vào ngày 25 tháng 2 và ngày 15 tháng 11 âm lịch, theo nghi thức tế thần. Những câu đối khác:

Bình tức nữ nhi dinh tức tướng
Tộc vi thủy tổ ấp vi thần

Và:

Oanh liệt nhất trường đương nhi thị nhĩ
Bản chi bách thế diệc hữu lợi tai

Những câu đối về hai vợ chồng Đào Kỳ và Phương Dung là tướng của Hai Bà Trưng

sửa

Trong tác phẩm Anh hùng Lĩnh Nam, bác sĩ Trần Đại Sỹ có kể lại câu chuyện khá cảm động của hai vợ chồng Đào Kỳ và Phương Dung, là tướng của Hai Bà Trưng, đóng ở vùng Bắc sông Đuống. Trong trận Cấm Khê Đào Kỳ đã bị thương, về đến Cổ Loa thì mất. Phương Dung tuẫn tiết theo chồng. Câu đối còn truyền lại nói về hai vị tướng này:

Vị lý Phục Ba thi, loan giá lâm lưu không ẩm hận
Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành qui mã thượng trì thanh

Dịch nghĩa:

Chưa bọc xác Phục Ba, cạnh sông xe loan còn vang uất hận.
Không rời giáp Tiên Trấn, ngựa về Cổ Loa, vẫn vọng âm thanh.

Câu đối khác tương truyền có ở đền thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở làng Hội Phụ:

Giao Chỉ tượng thành công dư lục thập thành giai kiện tướng.
Đô Dương mã bất tiến hậu thiên vạn tải hữu linh thần.

Dịch là:

Chốn Giao Chỉ quận Tượng thành công, sáu mươi thành lẻ đâu cũng là tướng giỏi
Gặp Đô Dương giặc Mã hết lối, muôn ngàn năm sau mãi mãi có thần thiêng.
“Mã bất tiến” đây là quân của Mã Viện đã không thể tiến lên được bởi sự kháng cự của Đô Dương. Đây là một bằng chứng cho thấy cuộc đàn áp của Mã Viện đã không hoàn toàn thành công như sử vẫn chép. Sau khi Hai Bà mất, Đô Dương lui về giữ Cửu Chân và đã cản được bước tiến của Mã Viện xuống phía Nam. Đô Dương không phải chỉ cầm cự được với Mã Viện trong 2 năm như chính sử viết, mà Mã Viện đã “không thế tiến” được qua đất của Đô Dương. Vậy Đô Dương, người thực tế đã tiếp nối thành công sự nghiệp của Trưng Vương là ai? Sử cũ hầu như không cho biết gì về Đô Dương cả. Người đã ngăn được bước tiến của giặc Mã phương Bắc không thể không có những vết tích để lại.

Nghè Lê Xá thờ Đào Kỳ - Phương Dung ở Đông Anh với câu đối:

Cử mục sơn hà vô Hán tướng,
Thệ tâm thiên địa hữu Trưng vương.

Dịch:

Ngước mắt núi sông không tướng Hán
Tâm nguyền trời đất có vua Trưng

Những câu đối khắc tại đền Hoàng Bà xã Quảng Châu thành phố Hưng Yên

sửa

Đền thờ Hoàng Bà, xã Quảng Châu (thành phố Hưng Yên). Đền được tạo dựng đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định. Trần Mã Châu hay còn được gọi là Châu Nương, con gái bộ chúa Trưởng Quan, ở đất Nam Xương (Hà Nam). Sống trong cảnh nước mất nhà tan, bà đã cắt tóc giả làm ni sư, đi khắp các chùa để chiêu mộ anh hùng hào kiệt. Chùa làng Bảo Châu, nay thuộc xã Quảng Châu, là nơi được bà chọn làm căn cứ chiêu tập quân sĩ. Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Đông Hán lại sang xâm lược, Trần Mã Châu ra quân quyết chiến với giặc. Tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh" khiến bà lúng túng, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thục mĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Dưới đây là câu đối khắc tại đền thờ bà:

“Quốc xỉ phục thù Tô thủ tội, chung dung nhất kiếm
Nhân thần nữ kiệt Trưng Vương danh cộng thám thiên hoa"

Nghĩa là:

Rửa hận Cha, thẹn thùng mất nước, tên Tô Định tham tàn, muốn tìm ngươi cho một nhát kiếm
Người là bậc thần và người nữ oanh kiệt thời Trưng Vương nổi tiếng, tham mưu danh luận, nghìn vẻ dáng như hoa

Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗ quý rất đẹp từ thời Bà còn sống, đúng như lời một câu đối khác ca ngợi:

“Bảo sắc đằng không lâm Việt địa
Kim dung phóng diệu chiếu Nam thiên"

Nghĩa là:

Sắc đẹp đã tôn màu vẻ bay khắp không trung, chọn nơi giáng sinh là đất Việt
Hình dung vàng ngọc chiếu khắp trời Nam, toả ra nhiều nét thiêng