Câu đối chưa rõ sự tích và nguồn gốc xuất xứ
Những câu chứa đựng nhiều ẩn ý
sửa- vế ra: Giáp mặt Thân Tình Tinh Thần yếu, nhất là Tính Đền Đến Tình yêu (Can Giáp, một can đầu trong mười can. Ngày xưa lấy mười can kể lần lượt, cho nên cái gì hơn hết cả đều gọi là giáp. Như phú giáp nhất hương 富甲一鄉 giầu nhất một làng. Dùng làm chữ nói thay ngôi (đại từ). Như anh giáp, anh ất, phần giáp, phần ất. Phàm không biết rõ là ai thì mượn chữ ấy làm cái tên mà gọi thay cho có chỗ mà so sánh. Ðời khoa cử, thi tiến sĩ lấy nhất giáp 一甲, nhị giáp 二甲, tam giáp 三甲 để chia hơn kém. Cho nên bảng tiến sĩ gọi là giáp bảng 甲榜. Nhất giáp chỉ có ba bực : (1) Trạng nguyên 狀元, (2) Bảng nhãn 榜眼, Thám hoa 探花 gọi là đỉnh giáp 鼎甲. Áo giáp (áo dày). Mai: như quy giáp 龜甲 mai rùa. Bảo giáp 保甲 kê tra các nhà các nhân xuất để cho cùng dò xét nhau mà phòng bị các quân gian phi ẩn núp, mười nhà gọi là một giáp) (Chi thân, một chi trong mười hai chi. Từ 3 giờ chiều đến năm giờ chiều gọi là giờ thân. Lại: như thân thuyết 申說 nói lại. Ðến: như phụng thân phỉ kính 奉申菲敬 kính dâng lễ mọn. Duỗi, cùng nghĩa với chữ thân 伸. Hàng đầu các văn thư nhà quan gọi là thân, bạc kém phân phải chịu tiền pha thêm cho đúng số bạc gọi là thân thủy 申水. Tên đất. Bầy tỏ: như thân lý 申理 người bị oan ức bày tỏ lý do để kêu oan)
- vế đối 1: Tân hôn Tí Ti Ti Tí khóc, nhất dạ Đêm Thâu Đau Thêm nữa (Huy Phong) (Nhất dạ: chỉ một đêm thôi mà sao thấy đêm dài thâu thẳm thao thức nên "đau đau" thêm, không biết đau lòng hay)
- vế đối 2: Canh giờ Mùi Mẫn Mẫn Mùi canh, bán dạ Ngự Sàn Ngàn Sự thanh (Mùi: còn có âm khác là Vị, chi Vị, chi thứ tám trong 12 chi. Từ một giờ chiều đến ba giờ chiều gọi là giờ vị. Chửa: như vị lai 未來 chưa lại, chưa tới. Chưa, dùng làm lời trợ từ. Như hàn mai trước hoa vị 寒梅著花未 mơ đã nở hoa chưa ? (Vương Duy 王維). Không. Lời nói chưa nhất định. Như vị khả tri dã 未可知也 chưa thể biết được) (Chỉ nửa đêm ngự sàn thôi đã cảm thấy ngàn sự thanh thoát, thanh tao....quả là cuộc sống đẹp lắm thay)
- vế đối 3: Quý nhau Thân Thiết Miết Thân nhau, sau mãi Thời Xa Thà Xơi sau (Can quý, một can sau chót trong mười can. Kinh nguyệt đàn bà gọi là "thiên quý" 天癸)
- vế đối khác 4: Đinh tai Tị Hiềm Hiềm Tị tiếng, Nhâm nhi Dần Dà Dà Dần tha
- vế đối khác 5: Kỷ vật thân hữu hữu thân thật, vân thật Vân Mộc Mộc Vân hữu (Can kỷ, can thứ sáu trong mười can. Mình, đối lại với người. Như vị kỷ 為己 chỉ vì mình, lợi kỷ 利己 chỉ lợi mình. Riêng, lòng muốn riêng) (Một vật kỉ niệm thân thiết có vân, mà là vân thật. Vân thật, Vân gỗ, gỗ có vân)
- vế ra: 妙人儿倪家少女 Diệu nhân nhi nghê gia thiếu nữ
- vế đối: 武士心志在止戈 Võ sĩ tâm chí tại chỉ qua
- Chữ diệu bẻ thành hai chữ thiếu nữ/ Chữ Vũ(võ) bẻ thành hai chữ chỉ qua. Ở đây khi bẻ chữ Diệu, người ta xếp chữ thiếu rồi mới đến chữ nữ, dụng ý là tạo thành từ “thiếu nữ”
- vế ra: Chữ Đại là cả, bỏ một nét ngang, chữ Nhân là người, chớ thấy người sang bắt quàng làm họ
- vế đối: Chữ Bì là da, thêm ba chấm thủy, chữ Ba là sóng, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
- Cách chuyển hóa chữ: “đại” [大] (cả, to, lớn), bỏ [一] “ngang”, thành chữ “nhân” [人] (người); chữ “bì” [皮] (da), thêm [氵] “ba chấm thủy”, ra chữ “ba” [波] (sóng)
- 'Vũ hậu đình tiền, miêu túc mai hoa, kê túc trúc雨後庭前猫足梅花🐔鸡足竹' (Sau cơn mưa, trước sân, dấu chân mèo in hình hoa mai, dấu chân gà in hình lá trúc)
- 'Dạ thanh thiên thượng, tinh hình đạn tử, nguyệt hình cung夜清天上星形弹子月形弓' (Đêm thanh, trên trời, những vì sao giống như viên đạn, mặt trăng giống như chiếc cung)
- Cái nhìn của tác giả thật sắc sảo, kết hợp giữa hình ảnh thực tế gần gũi ngay trước mắt là dấu chân mèo, dấu chân gà với ước lệ của thi và họa: hoa mai và lá trúc. Bầu trời vào buổi rạng sáng, thấy còn vầng trăng mỏng, thật mỏng, chỉ là một đường cong, và chỉ duy nhất một ngôi sao cạnh đó, rõ ràng là tinh hình đạn tử nguyệt hình cung)
- Ông thông đến gốc cây đề, ông thông không đi, là ông thông lại
- Ông tú đi qua cửa cống, ông tú nhảy được, là ông tú tài
- Theo ngữ cảnh thuận, thì “thông lại” là (ông) thông quay trở lại (kết cấu TV), cùng âm với “thông lại” (viên chức làm việc ở bàn giấy các công đường phủ, huyện thời thực dân Pháp) (HV); “tú tài” là (ông) tú có tài năng (kết cấu TV), cùng âm với “tú tài” (một học vị dưới cử nhân) (HV). Ngoài ra, “đề”, “cống” (trong “cây đề”, “cửa cống”) (TV), cùng âm với “đề” (thuộc đề, lại -viên chức), “cống” (thuộc cống (cử nhân), tú -học vị) (HV).
- Tí tận, thử tống mão
- Sửu đầu, ngưu thốn thìn
- “Tí”, “sửu”, về mặt biểu tượng, cùng nghĩa với “thử”, “ngưu”. Bên cạnh đó, “tí”, “sửu”, “mão”, “thìn” cùng trường nghĩa, thuộc thập nhị địa chi.
- Cuốc xuống ao uống nước
- Gà vào vườn ăn kê
- “Cuốc” (quốc), “kê” (HV), cùng nghĩa với “nước” (nước nhà), “gà” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “cuốc” là con chim cuốc, “kê” là loài cây (hạt kê thường dùng để nấu chè), “nước” là thức uống.
- Sửa nhà, gia đình ra sân
- Cứu nước, quốc hội phải họp
- Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “gia” – “nhà”, ”đình” – “sân”; ”quốc” – “nước”, ”hội” – “họp”.
- Dưới sông, hà bá là chúa
- Trên đất, thổ công làm trùm
- Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “hà” 2 “sông”, “bá” 2 “chúa”, “thổ” 2 ”đất”, “công” 2 “trùm”.
- Cháy chợ, chớ chạy
- Bể vò, bỏ về
- Ô! Quạ tha gà
- Xà! Rắn bắt ngoé
- “Ô”, “xà” (HV), cùng nghĩa với “quạ”, “rắn” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “ô”, “xà” là những từ cảm thán.
- vế ra: Thủ thỉ chén đầu lợn
- vế đối 1: Hung hổ vỗ bụng hùm
- vế đối 2: Túc tắc xơi chân gà
- “Thủ thỉ”, “hung hổ”, “túc tắc” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “đầu lợn”, “bụng hùm” “chân gà”(TV). Trong ngữ cảnh thuận, chúng là những từ thuần Việt (“thủ thỉ”: (ăn nói) nhỏ nhẹ, từ tốn; “hung hổ”: (thái độ) nóng nảy, dữ tợn); “túc tắc”: (thái độ) chậm rãi, thong thả
- Học trò Phú Khê ăn cơm cháy
- Quan huyện Thanh Trì uống nước ao
- “Cháy”, “ao” (TV) cùng nghĩa với cùng âm “khê” (TV) của “Khê” (trong Phú Khê), với “Trì” (trong Thanh Trì), là những yếu tố HV (được tách ra theo cách cùng âm).
- Nước giếng Rồng pha chè Long Tỉnh
- Lửa cầu Rắn thắp hương Xà Kiều
- Giếng Rồng, cầu Rắn (địa danh TV), cùng nghĩa với Long Tỉnh, Xà Kiều (địa danh theo HV). Long Tỉnh, Xà Kiều đồng thời là tên chè, tên hương; nên với hai địa danh trên là cùng âm.
- Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp
- Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê
- “Bươm bướm”, “cành sen” (TV), cùng nghĩa với “hồ điệp”, “liên chi” (HV); “gà trống”, “thóc” (TV), cùng nghĩa với “hùng kê”, “cốc” (HV). Trong hai câu trên có bốn cặp từ thể hiện hiện tượng đồng nghĩa thuần Việt-Hán Việt: bươm bướm- hồ điệp; cành sen- liên chi; gà trống- hùng kê; thóc- cốc, bên cạnh đó là hiện tượng đa nghĩa ở các từ Hán- Việt: nếu là liên chi (連 枝) nghĩa là liền cành, nếu là liên chi (蓮 枝) nghĩa là cành sen; nếu là cốc đế (鵒 蔕) nghĩa là chim cốc, nếu là cốc đế (谷 蒂) nghĩa là già cỗi. Liên chi hồ điệp: có thể hiểu theo các nghĩa: Bươm bướm (đậu) cành sen; cành sen, bươm bướm; liên tiếp nhau (nghĩa thoát). Cốc đế hùng kê: có thể hiểu theo các nghĩa: gà trống già cốc đế (khú đế); chim cốc, gà trống.
- Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư
- Sông Ngân Hà sao bạc chan chan, vịt nằm ấm áp.
- Có sáu cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “ao”–”trì”; “trong”–”thanh”; “cá”–”ngư”; “sông”–”hà”; “bạc”–”ngân”; ”vịt”–”áp”. “Thanh”, “trì”, “ngân”, “hà” cùng âm với Thanh Trì, Ngân Hà (tên riêng); “ngư”, “áp” là từ tố của “ngắc ngư”, “ấm áp”, được tách ra trên cơ sở cùng âm để đạt yêu cầu chơi chữ. Ở đây, cũng dùng cách chơi chữ cùng trường nghĩa sở thuộc: “cá” ? “ao Thanh Trì”, “vịt” ? “sông Ngân Hà”.
- vế ra: Huyện Tam Dương có ba con dê, đứng núi đá trông về Lập Thạch
- vế đối: Quan Tứ Kì đi xe bốn ngựa, vâng mệnh trời ra trị Thừa Thiên
- Các cặp từ ngữ cùng nghĩa HV–TV: “tam dương”–”ba con dê”; “lập thạch” –”đứng núi đá”; “tứ kì”–”bốn (con) ngựa”; “thừa thiên” –“vâng mệnh trời” (đồng thời, “tam dương”, “lập thạch”, “tứ kì”, “thừa thiên” là bốn từ ngữ cùng âm với bốn địa danh trong câu đối).
- vế đối khác: XE TỨ MÃ THẮNG BỐN CHÚ NGỰA, TRƯỚC DÒNG SÔNG HƯỚNG TỚI TIỀN GIANG
- Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
- vế đối 1: Ngư là cá, cá lội ngắc ngư
- vế đối 2: Long là rồng, rồng chạy long đong
- “Lộc”, “ngư” (HV), cùng nghĩa với “hươu”, “cá” (TV). Các từ HV này, đồng thời, cùng âm với các từ tố “lộc”, “ngư” trong “lộc cộc”, “ngắc ngư” (TV). “Long” (HV) cùng nghĩa với “rồng” (TV), cùng âm với từ tố “long” của “long đong”.
- Vôi tôi, tôi tôi
- Trứng bác, bác bác
- Hai “tôi” đầu là đại từ, “tôi3” là động từ (có nghĩa “làm cho tan vôi sống bằng cách đổ nước vào”), hai “bác” đầu là danh từ, “bác3” là động từ (có nghĩa “vừa đun nhỏ lửa vừa quấy cho đến khi sền sệt”).
- vế xuất: Đầu gối đầu gối
- vế đối 1: Tay cầm tay cầm
- vế đối 2: Chân quỳ chân quỳ
- vế đối 3: Tay mang tay mang
- Dùng cách chơi chữ cùng âm. Tiếng ở vị trí thứ hai là động từ “gối”(kê đầu), “cầm” (nắm giữ); tiếng ở vị trí thứ tư là từ tố của một danh từ song tiết: “gối” của “đầu gối” (mặt trước của chỗ ống chân khớp với đùi), “cầm” của “tay cầm” (bộ phận để cầm của một số dụng cụ, thường tròn và ngắn). Theo đó, vế trên hiểu là: cái đầu kê lên cái đầu gối; vế dưới hiểu là: cái tay nắm vào cái tay cầm. Tương tự, 2 vế đối sau tiếng ở vị trí thứ hai là động từ “quỳ” (ở tư thế gập đầu gối và đặt sát mặt nền để đỡ toàn thân), “mang” (giữ cho lúc nào cũng cùng theo với mình mà di chuyển); tiếng ở vị trí thứ tư là từ tố của một danh từ song tiết: “quỳ” của “chân quỳ” (chân thấp mà cong như dáng chân đang quỳ ở một số vật dụng), “mang” của “tay mang”. Theo đó, vế trên hiểu là: quỳ bên cái chân quỳ; vế dưới hiểu là: tay mang cái tay mang.
- vế xuất: Chè lam mất ngọt
- vế đối: Xôi vò chả ngon
- Dùng cách chơi chữ cùng âm. “Mứt” (âm địa phương nhiều nơi ở miền Trung và Nam cũng là “mất”), là thức ngon thuộc nhóm “mứt, ngào, cốm,...”, “chả” là thứ ngon thuộc nhóm “chả, nem, tré,...”, được hình thành trên cơ sở cùng âm: “mất (ngọt)” - hết (ngọt); “chả (ngon)” - không (ngon). Lại cũng có thể hiểu: chè lam và mứt thì ngọ, xôi vò và chả thì ngon.
- vế xuất: Bác cửu
- vế đối: Ông đui'
- “Bác cửu”: tám chín; đọc theo giọng Nam, ra “bác cẩu”, tức “bác chó”! “Ông đui”: onze douze (tiếng Pháp): mười một, mười hai; lại cũng có nghĩa “ông kém con mắt”! Hai nghĩa thuần Việt (TV) và nửa thuần Việt nửa Hán Việt (HV) đối nhau; hai nghĩa Hán Việt và Pháp Việt đều là những con số, chúng đối theo cách cùng trường nghĩa.
- Ở Điện Bàn còn lưu truyền một cặp vế đối trứ danh của hai cụ Tú thuộc hai làng Phước Chỉ và La Qua:
- vế ra: Con gái La Qua, qua hôn, qua hít, qua vít, qua véo, qua chọc, qua ghẹo, qua biểu em đừng có la qua
- vế đối: Con gái Phước Chỉ, chỉ xấu, chỉ xa, chỉ lười, chỉ nhác, chỉ bài, chỉ bạc, chỉ có chồng là may phước chỉ (Phước Chỉ là 1 xã thuộc huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh)
Những câu thông thường dễ hiểu
sửa- 大代表小代表大代表代表小代表 Đại đại biểu, tiểu đại biểu, đại đại biểu đại biểu tiểu đại biểu
- 男招待女招待男招待招待女招待 Nam chiêu đãi, nữ chiêu đãi, nam chiêu đãi chiêu đãi nữ chiêu đãi
- Cao nhân đối mặt, cao nhân đối
- Tiểu bối nhìn vào, tiểu bối xem
- Ông già mất nết "khoái mây mưa" (Phải Gió)
- Thằng bé chơi hoang "huơ mủi nhọn" (Huy Phong)
- Mười mấy khoa còn gì, nhờ trời có phúc phận
- Năm mươi tuổi thành tài, mừng ông càng dẻo càng dai
- Gió quyến ngọn cây, cây quyến gió
- Trăng lồng đáy nước, nước lồng trăng
- Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng
- Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi
- Gió tựa tường ngang lưng gió phẳng
- Trăng nhòm cửa sổ mắt trăng vuông
- Xuân, Hạ, Thu, Đông đủ bốn mùa
- Mai, Lan, Cúc, Trúc đủ bốn hoa
- Có tật giật mình cứu bệnh như cứu hỏa
- Đứt tay hay thuốc, làm phúc như làm giàu
- Cái cò lặn lội bờ sông, rủ rỉ nuôi con mà hóa thực
- Gối phượng ngậm ngùi dưới suối bâng khuâng duyên chị lại từ đây
- Trói chan kỳ ký tra vào rọ
- Rút ruột tang bồng trả nợ cơm
- Cô gái H'mông bên bếp lửa
- Chàng trai Mường Tè cạnh gốc cây
- vế ra: Lúa tám gặt, chín tháng mười
- vế đối 1: Anh Ngũ đói, lục tam thất
- vế đối 2: Nồi tư mua, quan năm sáu
- Bán hàng chiều khách, khách nhớ nhà hàng, nhà hàng không nhớ khách
- Họp chợ lấy người, người làm nên của, của chẳng làm nên người
- Hổ mang bò lên núi
- Gà lôi lạc dưới đồng
- Chị Thường, nằm trên giường, dấu "cái bình thường" vào trong
- Anh Trọng, đứng trên chõng, đưa "vật quan trọng" ra ngoài
- Con trai Văn Cốc, lên dốc bắn cò, đứng lăm le, cười khanh khách
- Con gái Bát Tràng, bán hàng thịt ếch, ngồi chầu hẫu, nói ương ương
- Bài bạc thức thâu đêm, mắt thâm thì, vui như Tết
- Rượu chè say suốt sáng, mũi sụt sịt, đẹp tựa Xuân
- Ông ăn nên làm ra, xây lầu tầng ba, gần trời xa đất
- Tôi có sao đành vậy, ở nhà cấp bốn, gần đất xa trời
- Nghi quốc nghi gia tân phụ nữ
- Năng văn năng vũ hảo nam nhi
- Công an, can ông đừng uống rượu
- Chủ báo, bảo chú chớ ăn chè
- Chữ nghĩa mớm dần con trẻ hết
- Râu ria đâm mãi cái dài ra
- Đất dân chùa làng, phong cảnh phật
- Người đời của thế nước non tiên
- Hoa quả lòng thành dâng cúng phật
- Đèn hương cung phụng kính gia tiên
- Kính thành hai chữ lễ
- Trung hiếu một lòng thờ
- Phẩm quả cúng giàng nghênh phật tổ
- Hương hoa thành kính hiến thiên tiên
- Phên đan mắt cáo mèo chui lọt
- Nghé lội ao sen ngó nổi lên
- Già trẻ gần xa nương bóng phật
- Tuần rằm hoa quả độ sinh linh
- Chi thiết tu đạo muôn đời phúc
- Thành tâm niệm phật vạn niên khang
- Cửa rộng thênh thang người qua lại
- Đường đi thẳng tắp khách ra vào
- Đất nước chùa làng phong cảnh phật
- Của đời người thế nước non tiên
- Bốn trụ bốn nghê cười cười cái kẻ tranh thịt tranh xôi mà chẳng biết tranh đua cùng thế giới
- Hai đầu long cuốn, cuốn những ai cuốn nước cuốn mây rồi mai đây cuốn sạch lũ bồi Tây
- Khúc hát Tầm dương, gặp gỡ chan hòa người bốn biển
- Cung đàn Thúy dịch. Đi về dan díu nợ ba sinh
- Trời đất cũng đa tình xui bác xuân công, cứ phố yên hoa đi lại mãi
- Phấn son càng tủi phận, hỏi ông nguyệt lão, cùng phường khăn yếm ghét ghen chi
- Đi xe đạp đạp xe đi vừa đạp vừa đi là đi xe đạp
- Thầy toán học học toán thầy vừa học vừa thầy là thầy toán học
- Tết đến gượng cười, mong con cháu chăm ngoan, nhà có dư gạo thóc
- Xuân sang gắn vui, cầu vợ hiền mạnh khỏe, vườn đủ quả đủ rau
- Nợ nần theo gió lạnh bay đi, vợ lại tươi như hoa nở thắm
- Của cải cùng khí ấm tràn vào, lòng chồng vua tựa trống hội vang
- Tính ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa, tuổi ngoại sáu mươi còn mạnh khoẻ
- Nhà ông có, có bàu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, bày ra một tiệc thấy linh đình
- vế ra: U DÃI NẮNG, U DẦM MƯA, KHÔNG ĐONG ĐƯA, U VẪN ĐIỆU! (U là tiếng miền Bắc, để gọi một bà mẹ chân quê, tương tự như chữ MÁ của miền Nam. Đặc trưng của bà mẹ chân quê ấy là dãi nắng, dầm mưa, long đong, vất vả, thủy chung, vì chồng, vì con. Thử hỏi trong cảnh khốn cực ấy bà mẹ chân quê có biết làm dáng, làm điệu hay không?)
- vế đối 1: CỤ HỒI XUÂN, CỤ TÁI GIÁ, CHUỘNG ĐẤU ĐÁ, CỤ THƯỜNG ĐU!
- vế đối 2: BỐ CẦY SÂU, BỐ CUỐC BẪM, CHẲNG LẨM CẨM, BỐ CHƠI LÒ
- Bà Nguyễn Ngọc Trai ăn mặc nửa trai nửa gái
- Ông Trần Thanh Lịch nói năng nửa địch nửa ta (Báo Văn nghệ)
- Không sợ KHÓ, không sợ KHỔ, chỉ sợ…KHÔ!
- Chẳng sợ MỎI, chẳng sợ MỆT, chỉ sợ…MỀM!
- Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc, thử đêm nay chuột có cắn không
- Tùng tùng hồi trống đào cây thông, ô cành nọ quạ không đậu được
- vế ra: Mặt mày người Việt, họ viết chữ Nguyễn, tiếng Mỹ nói nhuyễn, ô-kê ô-kê
- vế đối 1: Mồm miệng dịu dàng, đàng hoàng nghiêm trang, lên chùa cầm nhang, mô Phật mô Phật
- vế đối 2: Mừng lễ Độc Lập, tụ tập lai rai, nhậu món cờ tây, ê dzô ê dzô!
- vế đối 3: Mỗi ngày Chủ Nhật, cầu thực đồ chay, sau giờ thọ trai, thiện tai thiện tai
- vế đối 4: Đến mùa báo hiếu, nhưng thiếu tiền dư, chỉ gửi lá thư, mẹ khoẻ không mẹ?
- vế ra: Đồ ăn thì chơi, đồ chơi thì ăn
- vế đối 1: Cái có không muốn, cái muốn không có
- vế đối 2: Cái có không cần, cái cần không có
- vế đối 3: Cái muốn không cần, cái cần không muốn
- Uẩy, kìa ai vặn máy tuần hoàn đưa thoi ngọc để xoay Trời đất lại
- Ừ, mới biết rằng cơ tạo hoá mở then Xuân cho rạng nước non ra
- Mượn đất vô thường ươm hạt Đạo
- Hoa tình sẽ nở ngát hương Tâm
- vế ra: Vợ nuôi chó, chồng chén cầy; tứ đốm tam khoanh, cây còn hóa ra là nhà Tuất
- vế đối: Ngưòi bảo heo, kẻ kêu lợn; ba bầy bảy mối, lớn lại thành đích thị họ Trư
- Cô học trò bỏ cậu học trò, vì cậu học trò mò cô học trò
- Chàng trai tỉnh, phện em gái quê, bởi em gái quê, mê chàng trai tỉnh
- Hành thiền, hành thiền, thiền hành thành hiền
- Ông can ông can, can ông công an
- vế ra: CẦN TAY - CẦN MÁY - CẦN THỤT - CẦN DÀI, MUỐN CÂU ĐƯỢC CÁ PHẢI DÙNG TAY
- vế đối: CÂU BIỂN - CÂU SÔNG - CÂU RUỘNG - CÂU HỒ, MUỐN ĐI ĐẾN ĐÓ PHẢI DÙNG CHÂN
- vế đối khác: CÁ LÓC - CÁ THU - CÁ TO - CÁ NHỎ, NÊN KÉO CĂNG CẦN KHÔNG SẼ LÓC
- vế ra: Qua bến quán Hầu, gặp o đội nói xoáy Ốc, tay bắt Hến, miệng hát Nghêu Ngao
- vế đối: Đợi đò mũi Ếch, thấy ông mặc áo xã Cóc, chân bơi Nhái, mặt vểnh Ương Ương
- vế ra: Chợ Đồng Xuân bán bánh Trung Thu, Đông thì Đông nhưng không bán Hạ (khuyết danh)
- vế đối: Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây vẫn dựng kiểu Nam (khuyết danh)
- vế ra: Rú , rừng , núi , động , đèo , truông , Ngàn xanh cách trở , mấy luồng cũng theo.
- vế đối: Bể , hồ , khe , hói , lạch , rào , Sông sâu nước lội , ước ao kết nguyền.
- vế ra: Đại học Suối Máu, sáu tháng muối cơm
- vế đối: Giáo khu Thừa Thiên, cửa thiền thưa thớt
- vế ra: Dân nhậu Chu Lai, uống chai uống lu
- vế đối: Người dân Đập Đá, bị đá bị đập
- vế ra: Đi Chợ Búng coi chừng chúng bợ
- vế đối: Đến Hạ Long rát cổ họng la
- vế đối khác 1: Lên Bắc Cạn nghèo đành bán cặc
- vế đối khác 2: Vào Ba Thê cuộc sống bê tha
Câu đối sử dụng điệp âm đầu
sửa- Câu đối của Đàm Tiếu:
- Luồn lọt lên lương, lỗi lầm lấp liếm, luật lệ làm lơ, lũ lọc lường luôn lẩn lút!
- Phe phẩy phè phỡn, phân phối phập phù, phạm pháp phởn phơ, phường phản phúc phải phanh phui
- vế ra: Tết túng tiền tiêu tìm tớn tác (Vũ Đình Tuân)
- vế đối 1: Chị chưa chồng chửa chửi chanh chua (Minh Hương)
- vế đối 2: Nhà nhiều nho nhũn nhá nhôi nhai (Vũ Thị Song Thu)
- vế đối 3: Đường đầy điếm đón đứng đong đưa (Vũ Thị Song Thu)
- vế ra: Thật thà thẳng thắn thì thua thiệt
- vế đối: Lươn lẹo lọc lừa lại lên lương
- vế ra: Trịnh trọng chàng trâu chờ chú chuột
- vế đối: Choáng choàng chú chuột trốn chàng trâu
- Câu đối trên được viết nhân dịp tiễn năm Tý đón năm Sửu (không rõ năm nào)
- vế ra: Ngơ ngác ngô nghê nghĩ ngẩn ngơ, miên man mộng mị một mình mơ, thì thầm tha thiết thương thân thế, chàng chấp chuyện chi chẳng chịu chờ?
- vế đối: Trăn trở trách trời trong trớ trêu, ruột rà rời rã rối rong rêu, đớn đau đờ đẫn đời điên đảo, ân ái anh à em ứ yêu...
Câu đối sử dụng từ ngữ nói lái
sửa- vế ra: Thiết trường kỷ dĩ tôn kỳ trưởng (Bày ghế dài ra để mời những người lớn tuổi)
- vế đối: Lập bình phong nhi tuyển phòng binh (Đặt tấm bình phong để tuyển dụng binh sĩ)
- vế ra: Con bé mập ú nhờ bà mụ ấp
- vế đối: Thằng bé ốm tong vác cái ống tôm
- vế đối khác 1: Bức tranh lộng kiếng đem đi liệng cống
- vế đối khác 2: Chàng trai sứt môi ngồi ăn xôi mứt
- vế đối khác 3: Cô gái mồm to lặn lội mò tôm
- vế đối khác 4: Cô nàng dâu Hứa đi mua dưa hấu
- vế đối khác 5: Thằng rể bảnh trai ngồi cạnh bãi tranh
- vế đối khác 6: Người mặc áo xanh chính là anh xáo (anh Sáu, giọng Nam)
- vế đối khác 7: Miếng thịt băm nát trong bụng bác Năm
- vế đối khác 8: Cô gái muốn chồng ngó cái mống chuồng
- vế đối khác 9: Con chó què chân bị cái quần che
- vế đối khác 10: Con chim sáo sậu chê cô xấu xạo
- vế đối khác 11: Nhờ cái búa đỏ chẻ thành bó đũa
- vế đối khác 12: Cái nồi cơm thiu lại dám kêu thơm
- vế ra: Chiều chiều cụ Mão lên rừng cạo mũ
- vế đối: Sáng sớm bà Hạc đi bán bạc hà
- vế đối khác 1: Rượu thuốc Bạch Hổ, uống bổ như hạch
- vế đối khác 2: Con gái Đà Nẵng, tứ đẳng nõn nà
- vế đối khác 3: Thầy giáo Bản Giốc, vừa bốc vừa giảng
- vế đối khác 4: Tử tù Cổng Trời, bị cởi bị trồng
- vế ra: Con cá rô cố ra khỏi rá cô
- vế đối: Chú chó mực chực mó vào chõ mứt
- vế ra: Con cóc cái ngồi trên cái cốc
- vế đối: Con cầy tơ đứng dưới cờ Tây
- vế ra: Mài kéo cắt đuôi mèo cái
- vế đối: Lòn cưa cứa cổ lừa con
- vế ra: Con cá đối nằm trên cối đá
- vế đối 1: Chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ
- vế đối 2: Cái mông đầm tạ lên mâm đồng (khuyết danh)
- vế đối 3: Cái lò tôn đặt dưới lồn to (Trước đây, người phụ nữ Việt Nam ta thường “nằm than” trong thời gian đầu, sau khi sanh nở - chữ nằm than – than ở đây là than đốt trong lò sưởi, để sưởi ấm)
- vế đối 4: Mụ mèo cái nằm trên mái kèo (khuyết danh)
- vế đối 5: Cô láng giềng tắm bên giếng làng (khuyết danh)
Câu đối thời kỳ bao cấp
sửa- Câu đối không dùng chữ mà vẫn đối ý chan chát:
Độc đáo nhất có lẽ là câu đối sau: Cũng hoàn toàn không dùng một chữ nào mà vẫn ... rất đối:
- Vế ra: “?”
- Vế đối: “!”
- Đó là một giai thoại về bức thư của nhà văn nổi tiếng thế giới, nhắc nhà xuất bản sao mãi chưa trả tiền nhuận bút (?); giám đốc nhà xuất bản đã chơi chữ lại bằng một dấu chấm than (!), có ý cười trừ! Đôi câu đối chỉ có một dấu ? và một dấu !, nhưng nội dung ẩn dụ trong đó, thì cả người nhận và người gửi, đều hiểu!
- Đây là tình cảnh của những anh nghèo rách mồng tơi mà lại thêm bỉ vận:
- Con heo nái của anh Hai nếu ngủm cù đeo nghẻo cù đum
- Chú cu mồi của bác Côi mù ngấc cẳng quay ngay cẳng quấc
- Những câu đối khác chưa rõ sự tích và tác giả:
- Chê số đời, chơi số đề, cầu giải số, cố giải sầu, càng cố càng sầu
- Cầm cái đuốc, cuốc cái đầm, soi đầy ốc, xốc đầy oi, càng soi càng xốc
- Làm giáo chức, nên phải giứt cháo
- Thảo chương rồi, để được thưởng chao
- Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
- Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày
Chiều ba mươi, thầy giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang
- Tháng Đầy Thầy Đáng dăm lon gạo
- Lương thầy Tiền Lính Tính Liền xong
- Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy
- Thầy tu thù Tây, cầu đạo cạo đầu
- Nói đế chuyện xếp hàng mua tiêu chuẩn Tết thời bao cấp, có câu đối như sau:
- Tí mỡ, tí miến, tí mì chính, bán bìa số 9, chen bẹp ruột
- Lít dầu, yến củi, yến mùn cưa bán ô số 3, xô lòi gan
Câu đối thời hội nhập
sửa- Vẽ bức tranh Xuân: lợn béo, gà to ưng ý vợ
- Đề câu đối Tết: khoai sai lúa tốt đẹp tình chồng
- Cán bộ to đi xe nhỏ
- Nhân viên thấp ở nhà cao
- Xuân vẫn còn dài, hướng đến tương lai vùng đất mới
- Tết dù đã ngắn, quay nhìn dĩ vãng cảnh người xưa
- Giao thừa hái lộc, cung kính ông bà, rượu rót đôi ly, nghe lời chúc
- Mồng một đơm hoa, nhớ ơn cha mẹ, trà dâng ba chén, nhận lì xì
- Mừng xuân đất nước an toàn giao thông tiến
- Đón xuân gia đình hạnh phục lộc an khang
- Đón xuân, đón tết, đón đất nước vươn mình gió lặng trời trong vui mọi nẻo
- Mừng Đảng, mừng dân, mừng non sông đổi mới hoa thơm trái ngọt đẹp muôn nhà
- Tết trồng cây non nước rộ mầu xanh, xanh vạn thuở ấm tình Người vĩ đại
- Xuân kiến thiết quê hương bừng nét đẹp, đẹp muôn đời công đức Đảng quang vinh
- Cán bộ giữ chữ chính, liêm phấn đấu hy sinh, dân hạnh phúc ắt bền gốc rễ
- Nhân dân nhớ câu cần, kiệm quên mình lao động, nước phồn vinh do tự ngọn nguồn
- Mừng tết luyện quân hùng, chiến thuật tinh thông, tỉnh táo gác canh trời Tổ quốc
- Đón xuân rèn tướng giỏi, bài binh bố trận cơ mưu phòng vệ đất quê hương
- Trải nghìn năm văn hiến, đất Thăng Long từng quy tụ nhân tài
- Tiếp truyền thống hào hoa, người Hà Nội luôn mở mang tri thức
- Hai mươi tuổi trẻ măng, các cụ cũng gọi thầy nghe mà đỏ mặt
- Sáu chục xuân già cả, con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời
- Nhớ thủa rồng lên ngày mới Thăng Long, Vua Lý dâng hương tiên tổ
- Vào mùa én liệng, tiết xuân Hà Nội, Bác Hồ chúc Tết nhân dân
- Ngày xuân kiến tạo bức tranh xuân, vươn tới đỉnh cao Chân - Thiện - Mỹ
- Năm mới dựng xây con người mới, chói ngời gương sáng Đức - Tài - Tâm
- Già mẫu mực, tâm đức nêu gương, việc đạo việc đời. truyền con cháu
- Trẻ xông pha. nhiệt tình phấn đấu, chữ trung, chữ hiếu, học ông bà
- Đổi mới không đổi đường, nối gót ông cha giương cao cờ độc lập
- Hoà nhập chẳng hoà tan, noi gương tiên tổ mài sắc chí kiên cường
- Mấy nghìn năm giữ nước lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn tết đến trời Nam xuân một cõi
- Bao thế hệ xây đời, biến khó khăn thành thuận lợi xuân sang đất Việt tết muôn nhà